Bố không muốn nhận con, có được không?

Theo quy định pháp luật, nếu không muốn nhận con, thì phải phải chứng minh được cháu bé không phải là con mình và được Tòa án xác nhận.

Hỏi:Tôi lấy vợ được 03 năm, đến năm thứ 3 chúng tôi mới có con chung. Nhưng vừa rồi tôi đi khám sức khỏe chuẩn bị xuất khẩu lao động thì phát hiện ra mình bị vô sinh từ khi còn chưa lấy vợ. Tôi đi xét nghiệm với con thì phát hiện cháu bé không trùng ADN với tôi. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi có phải nhận con không? (Ngô Dũng)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lương Thị Anh Thư - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về xác định cha, mẹ cho con như sau:

1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.

Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.

Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.

Như vậy, theo quy định pháp luật, nếu không muốn nhận con, thì phải phải chứng minh được cháu bé không phải là con mình và được Tòa án xác nhận. Trong trường hợp của anh, giấy xét nghiệm ADN của anh và cháu có thể được coi là một loại chứng cứ, tuy nhiên chứng cứ này cần phải có sự xác nhận của Tòa án thì anh mới có quyền không nhận con.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.