Bắt khách hàng chờ 15 ngày, Văn phòng công chứng làm đúng hay sai?

Thời hạn công chứng không quá 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc.

Hỏi: Tôi đi công chứng di chúc. Nhân viên của văn phòng công chứng hẹn 15 ngày nữa thì quay lại. Đề nghị Luật sư tư vấn, văn phòng công chứng hẹn như thế có làm đúng luật không? (Lê Xuân Hiểu - Yên Bái)
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lương Thị Anh Thư - Tổ tư vấn pháp luật Hành chính Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 43 Luật Công chứng năm 2014 quy định như sau:

1. Thời hạn công chứng được xác định kể từ ngày thụ lý hồ sơ yêu cầu công chứng đến ngày trả kết quả công chứng. Thời gian xác minh, giám định nội dung liên quan đến hợp đồng, giao dịch, niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản, dịch giấy tờ, văn bản không tính vào thời hạn công chứng.

2. Thời hạn công chứng không quá 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc”.

Theo đó, thời hạn công chứng chỉ có thể kéo dài nhiều nhất là 10 ngày, đối với những giao dịch có nội dung phức tạp. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng thời gian tối đa 10 ngày này sẽ không bao gồm thời gian xác minh, giám định nội dung liên quan đến văn bản cần công chứng.

Như vậy, với trường hợp này, anh (chị) nên phản ánh lại với văn phòng công chứng, yêu cầu họ giải thích rõ ràng hơn về thời hạn 15 ngày.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.